Mẹ Maria, Mẫu Gương Cảm Nghiệm Chiêm Niệm

 

 

Tới đây, tôi đă tŕnh bày những mấu chốt cảm nghiệm chiêm niệm của tôi, tức là, việc đọc suy niệm Sách Thánh, việc học hỏi các văn kiện thần bí của Thánh Bơ-Na, việc đào sâu vào sự khôn ngoan của các Bậc Thày Đông Phương, nhất là việc d́m ḿnh vào mầu nhiệm Chúa Kitô trong Bí Tích Thánh Thể. Trong chương này, tôi xin tŕnh bày phương thế cuối cùng, nhưng không có nghĩa là phương thế kém nhất, trong các mấu chốt cho cảm nghiệm chiêm niệm của tôi – đó là Đức Trinh Nữ Maria, mô phạm của cuộc hiệp sinh chiêm niệm với Thiên Chúa.

 

Tôi đă cố gắng diễn tả cảm nghiệm chiêm niệm như là một “cảm nghiệm thực sự (experiential realization) về cuộc hiệp nhất thân mật với Thiên Chúa”. Vậy chúng ta có thể nói rằng cả cuộc sống của Mẹ Maria là một cảm nghiệm chiêm niệm liên lỉ và cứ tiếp tục như thế! V́ Mẹ không thôi sống cuộc sống b́nh thường hằng ngày của Mẹ trong trạng thái hiệp nhất thân mật với Thiên Chúa.

 

Mẹ Maria đă chiếm một chỗ tôn kính đặc biệt nơi các cộng đoàn Xi-Tô. Mẹ là quan thày của chúng tôi, và tất cả các đan viện của chúng tôi đều được hiến dâng cho Mẹ và tôn kính ảnh hay tượng Mẹ trên cửa sổ nhà thờ. Việc cuối cùng của mỗi ngày sống đan viện là việc chúng tôi tụ họp lại trước h́nh ảnh Mẹ để hát “Kinh Lạy Nữ Vương” (Salve Regina) – “Kính chào Thánh Nữ Vương”. Việc tôn sùng Mẹ Maria này không phải là cổ hủ hay một việc t́nh cảm. Các đan sĩ đă nhận ra từ lâu là Mẹ Maria đă được đầy cảm nghiệm chiêm niệm và là mô phạm cũng như hướng viên cho cuộc sống chiêm niệm. Mẹ cũng có đầy kinh nghiệm loài người nữa. Là tiêu biểu cho nữ tính vĩnh viễn, Mẹ giữ ch́a khóa cho việc ḥa nhập nội tại riêng của chúng ta cũng như cho mầu nhiệm phải được hoàn thành nơi mỗi người chúng ta: đó là mầu nhiệm tái sinh “không bởi huyết nhục hay đam mê nhục dục hoặc ư muốn con người mà là bởi Thiên Chúa” (Jn.1:13).

 

 

Mẹ Maria Biểu Hiệu Nữ Tính nơi Loài Người

 

 

Mẹ Maria là mô phạm của linh hồn trong tinh thần chiêm niệm và thiết tha phó ḿnh cho Thiên Chúa. Khi Thần Gabiên truyền tin cho Mẹ Maria là Mẹ sẽ thụ thai và sinh hạ một Con Trai bởi Chúa Thánh Thần th́ Mẹ cởi mở toàn thể con người ḿnh ra cho Thiên Chúa, Mẹ thưa: “Này tôi là nữ tỳ Chúa! Xin thực hiện nơi tôi những ǵ ngài truyền” (Lk.1:38). Trong việc hoàn toàn cởi mở cho ư muốn của Thiên Chúa, Mẹ phó ḿnh cho Thiên Chúa như một người nữ, để hạt giống của Thiên Chúa gieo vào ḷng Mẹ. Trong cuốn Maria: Cung Ḷng của Thiên Chúa, Cha George Maloney đă viết:

 

“Mẹ Maria chiêm niệm là mẫu thức tiêu biểu (the archetypal symbol) cho nữ tính nơi mỗi một con người. Chúng ta sống động như Kitô hữu. Giáo Hội trở nên Thân Thể sinh động của Chúa Kitô khi chúng ta sống cái nữ tính ấy nơi chúng ta. Cung ḷng Mẹ Maria nói lên cho chúng ta thấy một cách hùng hồn là, tầng sâu thẳm nhất của tiềm thức chúng ta là nơi Thiên Chúa đă gieo cái đói khát tiên nguyên (primeval), muốn vây quấn, bao phủ, ấp ủ Thiên Chúa, Đấng khó tới gần, khó chiếm đoạt và siêu việt”.

(George Maloney, Mary the Womb of God;

Denville, New Jersey, 1976, pp, 21-22)

 

Theo tâm lư Á Đông, chúng ta thấy có một sự chung đụng giữa hai nguyên lư Dương (Yang) và Aâm (Yin), một chung đụng tạo nên toàn khối con người. Theo lối nói ngày nay th́ tâm lư cổ kính này diễn tả mối liên hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa như là một cuộc chung đụng của hai nguyên lư ấy.

 

Trong cuốn Mầu Nhiệm và Lương Tâm, L. Beirnaert đă nhấn mạnh như sau:

 

“Chính cái tâm linh (the psyche), cái hồn sống (the anima), cái linh hồn (the soul) làm nên việc giao tiếp với Thiên Chúa… và là một cuộc giao tiếp với Thiên Chúa bằng nữ tính”.

(L. Beirmaert, Mystique et Conscience; Paris, 1952, pp. 377,

as quoted by George Maloney in Mary the Womb of God;

Denville, New Jersey, 1976, p.21)

 

Cũng thế, trong cuốn Độc Tiêu, Matthew Kelty đă nói một cách táo bạo thế này:

 

“Không ai chỉ là người nam mà thôi (no man is only man). Loài người không phải chỉ là người nam (the human race is not just man). Làm sao chúng ta có thể liên hệ với Thiên Chúa mà lại không liên quan ǵ tới phụ nữ? Và làm sao chúng ta có thể nhận ra toàn thể Chúa Kitô (the whole Christ) nếu chúng ta không có người nữ để nhận ra toàn thể Chúa Kitô? Và nếu chúng ta cho rằng chúng ta có thể liên hệ với Giáo Hội là Mẹ của chúng ta, vị hôn thê của Chúa Kitô, mà không cần đến mô thức là Thánh Mẫu của Người, th́ chúng ta tưởng rằng các công thức và các quan niệm suông chính là thực tại vậy”.

(Matthew Kelty, Flute Solo; New York: Image Books, 1980, p. 106)

 

Trong bài giảng “Chúa Giêsu Đă Vào Làng”, Meister Eckhart (d.1327), một nhiệm sĩ ḍng Đaminh người Đức ở thế kỷ 14, đă nói đến hoạt động của yếu tố nữ tính này nơi tất cả loài người bằng những lời mạnh mẽ như sau:

 

“Đối với người nam, để sinh hoa kết trái họ phải là một người vợ. ‘Người vợ’ đây là một danh xưng cao qúi nhất mà tâm trí có thể có được, và nó thực sự c̣n cao qúi hơn cả danh xưng ‘trinh khiết’. Người nam ấy chịu lấy Chúa trong ḿnh là việc tốt, và nhờ việc tiếp nhận này họ trở thành một trinh nữ. Thế nhưng, Thiên Chúa sinh hoa kết trái nơi ho ïth́ tốt hơn, v́ việc sinh hoa kết trái cho ơn được ban tặng chính là tỏ ḷng tri ân ơn đă lănh nhận. Tâm linh con người là một người vợ khi nó tỏ ḷng biết ơn trong việc sinh ra Chúa Giêsu và trao lại vào cung ḷng thân phụ Thiên Chúa”.

(Reiner Schurmann, Meister Eckhart: Mystic & Philosopher,

transl. Reiner Schermann; Indiana University Press, 1978, p. 4)  

 

Cũng trong bài giảng này, Eckhart c̣n nói:

 

“Nơi tâm trí có một năng lực không đụng chạm ǵ đến thời gian hay xác thịt; nó từ tâm linh chan ḥa ra và lưu tồn trong tâm linh, hoàn toàn là tâm linh. Nơi năng lực này, Thiên Chúa hoàn toàn tốt tươi và thăng hoa với tất cả hỉ hoan và tất cả vinh dự như nơi chính ḿnh Ngài. Năng lực này được chiếm ngự bởi niềm vui ưu ái ấy, một niềm vui cả thể khôn thấu đến nỗi không ai có thể nói hết. V́, nơi năng lực này, Chúa Cha hằng hữu không ngừng hạ sinh Chúa Con hằng hữu, như thể năng lực này sinh ra Con Thiên Chúa cùng với Ngài, và chính năng lực này, giống năng lực của Chúa Cha, cũng sinh ra cùng một Người Con ấy”.

(Reiner Schurmann, Meister Eckhart: Mystic & Philosopher,

transl. Reiner Schermann; Indiana University Press, 1978, p. 5)

 

Cuộc hạ sinh tinh tuyền của Chúa Kitô là một việc kỳ diệu và là một kỳ công vĩ đại nhất của Thiên Chúa. Nó được thực hiện là v́ Mẹ Maria hoàn toàn cởi mở đối với Thiên Chúa. Cuộc hạ sinh tinh tuyền của Chúa Giêsu cách thiêng liêng cũng có thể xẩy ra nơi mỗi người chúng ta, nếu chúng ta biết hoàn toàn cởi mở trước Thiên Chúa. Suy đến mầu nhiệm này, Cố linh mục Bede Grifths đă viết trong cuốn Về Với Cơi Ḷng như sau:

 

“Cuộc hạ sinh tinh tuyền của Chúa Giêsu đạt được là v́ một người nữ tỏ ra hoàn toàn phó ḿnh cho t́nh yêu. Cái mà t́nh yêu nhân loại cố chiếm lấy một cách bất toàn bằng t́nh dục và hôn nhân th́ ở đây lại được đạt thành bởi T́nh Yêu thần linh. Mầu nhiệm yêu thương hoạt động nơi toàn thể tạo vật, nơi các v́ tinh tú và các nguyên tử, nơi cây cối, nơi thú vật, và nơi con người là nơi nó đạt tới tột đỉnh của ḿnh. Con người kết hôn với Thiên Chúa trong Mẹ Maria; người nam và người nữ  hiệp thành một con người trong cuộc hôn nhân nội tâm và một con người mới được sinh ra… Con người mới này không được sinh ra bởi việc truyền sinh theo t́nh dục: ‘Không bởi huyết nhục hay bởi đam mê nhục dục hoặc bởi ư muốn con người, mà là bởi Thiên Chúa’ (Jn.1:13). Đây là một mầu nhiệm cần phải được hoàn thành nơi chúng ta. Mọi người nam nữ đều phải đảm nhận cuộc hạ sinh tinh khiết này, đều phải kết hôn với Thiên Chúa. Nói cách khác, ngoài con người thể lư và tâm lư của chúng ta, chúng ta c̣n phải khám phá ra con người linh thiêng của ḿnh nữa, khám phá ra trọng tâm đời đời của ḿnh, nơi mầu nhiệm yêu thương được nên trọn”.

(Bede Griffiths, Return to the Center,

Springfield, II: Templegate, 1977, pp. 64-65)

 

Nếu chúng ta để cho ḿnh thanh thoát và giữ ḿnh khỏi dính bén với tất cả mọi sự th́ chúng ta có thể cảm nghiệm được việc sinh hoa kết trái thiêng liêng này, một mầu nhiệm của “trọng tâm tinh tuyền” ấy nơi chúng ta, nơi sinh ra con người nam hay nữ bằng sự viên măn vô cùng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đă phán: “Ta là cây nho, các con là cành. Ai ở trong Ta và Ta ở trong họ, sẽ sinh nhiều hoa trái” (Jn.15:5). Cũng trong cùng một bài giảng, Meister Eckhart tiếp tục như sau:

 

“Người trinh nữ nào làm vợ, thanh thoát và giữ ḿnh khỏi dính bén trong mọi lúc, th́ gần gữi với Thiên Chúa cũng như với chính ḿnh. Người trinh nữ ấy sinh nhiều hoa trái, những hoa trái to tát, không ǵ khác hơn là chính Thiên Chúa. Người trinh nữ làm vợ ấy trổ sinh hoa trái gấp trăm hay ngàn lần một ngày. Phải, họ sinh hoa trái không ngừng nghỉ, bằng việc sản sinh nơi cơi ḷng cao qúi nhất của ḿnh. Nói đúng hơn: người trinh nữ ấy thực sự dồi dào sinh lực bởi cùng một cung ḷng Chúa Cha nhiệm sinh Lời hằng hữu của Ngài, và thực sự cùng Ngài sinh sản.

 

Phần Chúa Giêsu, là ánh sáng và là phản ánh cung ḷng Chúa Cha, như Thánh Phaolô nói, hiệp nhất với người trinh nữ, cũng như người trinh nữ hiệp nhất với Người, và người trinh nữ cùng Người chiếu sáng và tỏa rạng, một cuộc hiệp nhất đồng dạng, một ánh sáng tinh tuyền và tỏ tường, như ở nơi cung ḷng Chúa Cha”.

(Reiner Schurmann, Meister Eckhart: Mystic & Philosopher,

transl. Reiner Schermann; Indiana University Press, 1978, p. 58)

 

Có thật sự tất cả chúng ta đều là nữ tính trong mối liên hệ với Thiên Chúa không?  Khi qúi bạn nhớ lại cảm nghiệm chiêm niệm của riêng ḿnh th́ sự thật này có thể sẽ sáng tỏ hơn đối với qúi bạn. Tôi nhận ra có một cái ǵ không trúng trong việc khuyên kẻ khác cứ cho ḿnh đóng vai tṛ Mẹ Maria vào lúc Truyền Tin, nhất là khi có nhiều độc giả của tôi lại là người nam. Khi chúng ta bắt đầu tiến vào mối liên hệ hiệp nhất với Thiên Chúa, chúng ta đừng ngỡ ngàng khi những cử chỉ thân mật làm ta “giật ḿnh” và “bị xóc”. Lối sống mới bao giờ cũng làm “xóc” lối cảm xúc, lối suy tưởng và lối sống cũ.

 

Bị đóng đanh trên thập giá có lẽ là một cái rùng ḿnh dữ dội hơn hết, thế nhưng, nó cũng chỉ là cái vươn dài của lời Mẹ Maria thưa: “Xin hăy thực hiện nơi tôi như lời ngài”. Meister Eckhart đă thấy cái “xóc” và “rùng ḿnh” này như là “một niềm vui cả thể khôn lường” (Reiner, Meister Eckhart, Ibid. p. 5).

 

 

Mẹ Maria Biểu Hiệu Đức Khiêm Nhượng Trọn Vẹn

 

 

Trăm năm và ngàn năm đă sửa soạn cho việc nhập thể của Chúa Kitô. Trung tâm điểm của dự án Thiên Chúa này là một người nữ trẻ, người sẽ hiến cho Chúa Giêsu tất cả những ǵ là nhân loại.

 

Khi Mẹ Maria cầu nguyện, trông đợi và kêu cầu Thiên Chúa sai Đấng Cứu Chuộc đến với dân Ngài, th́ Tổng Thần Gabiên đến và chào Mẹ rằng: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc; Chúa ở cùng Trinh Nữ; Trinh Nữ có phúc trong các người nữ” (Lk.1:28).

 

Mẹ Maria đă đáp lại lời chào này ra sao? Mẹ đă giữ thinh lặng, thế nhưng, khi suy nghĩ về các lời của thiên thần th́ Mẹ đă cảm thấy bối rối. Cái bối rối của Mẹ hoàn toàn nổi lên từ ḷng khiêm hạ của Mẹ, một ḷng khiêm hạ bị quấy rầy bởi tiếng chúc tụng vượt quá ư nghĩ của Mẹ về thân phận Mẹ thấp hèn. Thấy Mẹ Maria bị bối rối về lời chào của ḿnh, Tổng Thần Gabiên buộc phải trấn an Mẹ:

 

“’Hỡi Maria, xin đừng sợ! Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh con trai, rồi Trinh Nữ phải đặt tên cho Ngài là Giêsu. Ngài sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài vương ṭa của Đavít tổ phụ Ngài; Ngài sẽ cai trị Nhà Giacóp đến muôn đời và triều đại Ngài sẽ vô cùng tận’.

 

Maria thưa với thiên thần rằng: ‘Thế nhưng điều này xẩy ra thế nào được, v́ tôi là một trinh nữ?‘ Thiên Thần đáp: ‘Thánh Thần sẽ đến với Trinh Nữ, và quyền phép Đấng Tối Cao sẽ bao phủ Trinh Nữ. Bởi thế Con Trẻ sinh ra sẽ là thánh và sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Xin hăy biết điều này nữa là, bà Isave thân thuộc của Trinh Nữ cũng đă mang thai trong tuổi già, người dân chúng cho là son sẻ nay đă cưu mang được sáu tháng, v́ không có ǵ Thiên Chúa lại không làm được’. Maria thưa: ‘Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin hăy thể hiện nơi tôi như lời ngài truyền’” (Lk.1:22-38).

 

Oâi, c̣n câu trả lời nào tuyệt vời hơn, tự hạ hơn và khôn ngoan hơn, câu trả lời làm trời cao mừng vui, và mang đến cho thế gian một biển cả ân sủng cùng với phúc lành! Trong bài giảng thứ nhất trong số bốn bài về Việc Chúc Tụng Trinh Nữ Maria, Thánh Bơ-Na đă gán vai tṛ làm mẹ của Mẹ Maria cho ḷng khiêm nhượng của Mẹ. Ngài lư luận thế này:

 

“Anh em có thể được cứu rỗi mà không cần đức trinh khiết, thế nhưng, không có ḷng khiêm nhượng anh em sẽ không được cứu rỗi. Mất đức khiết trinh mà khiêm nhượng thương tiếc th́ c̣n được. Trái lại, tôi dám nói rằng, không có khiêm nhượng th́ ngay cả đức trinh khiết của Mẹ Maria cũng không được Chúa chấp nhận. Chúa phán: ‘Thần Linh của Ta sẽ ở trên ai, nếu không phải trên kẻ khiêm nhượng và thống hối ăn năn’ (Is.66:2). Hăy để ư là Ngài nói ‘trên kẻ khiêm nhượng’ chứ không phải ‘trên kẻ đồng trinh’. Nếu Mẹ Maria không khiêm nhượng, th́ Thánh Thần đă không ở trên Mẹ. Nếu Ngài không ở trên Mẹ th́ Mẹ không thụ thai được. Thật thế, sao Mẹ có thể thụ thai bởi Ngài mà lại không có Ngài? Thế th́ rơ ràng là Mẹ đă thụ thai bởi Thánh Thần, v́, như chính Mẹ nói: ‘Thiên Chúa đă trông đến phận thấp hèn nữ tỳ Ngài’ hơn là đến đức trinh khiết của Mẹ. Mà dù có v́ đức trinh khiết của Mẹ mà Mẹ có phúc đi nữa, th́ việc Mẹ thụ thai là do ḷng khiêm nhượng của Mẹ. Thế nên, chắc chắn đức đồng trinh của Mẹ có làm Thiên Chúa hài ḷng chính là v́ ḷng khiêm nhượng của Mẹ đă giúp cho”.

(Bernard of Clairvaux, Magnificat in Praise of the Blessed Virgin Mary; transl. Maria Bernard; Kalamazoo, MI. Cistercian Publications;

CF 18, pp. 9-10)

 

Dự đoán có người sẽ hỏi ư nghĩa của việc hoan hưởng t́nh trạng hiệp nhất thân mật với Chúa Kitô hay việc hoan hưởng cảm nghiệm chiêm niệm, Thánh Bơ-Na đă nhấn mạnh đến việc cần phải có ḷng khiêm nhượng như sau:

 

“Có thể một ai sẽ hỏi tôi rằng: ‘Việc hoan hưởng Lời nghĩa là ǵ?’ Tôi sẽ trả lời rằng, họ phải t́m người nào có kinh nghiệm về việc này mà hỏi. Giả như tôi có kinh nghiệm đi nữa, anh em nghĩ tôi có thể diễn tả nó cho anh em hay chăng? Tôi đă nhận được kinh nghiệm này, song tôi không nói về nó đâu. Tôi đă dễ dăi nơi những ǵ tôi nói để anh em có thể hiểu tôi. Ôi, bất kỳ ai ṭ ṃ muốn biết ư nghĩa trong việc hoan hưởng Lời, hăy sửa soạn ḷng ḿnh, chứ không phải tai của anh em! Miệng lưỡi không thể chỉ dạy điều này, ân sủng mới dạy cho biết được mà thôi. Nó bị giấu kín đối với kẻ khôn ngoan khéo léo mà được tỏ ra cho các con trẻ. Anh em thân mến, khiêm nhượng là một nhân đức lớn, cao cả và trọng vọng. Nó có thể đạt được những ǵ nó không thể học biết; nó được cho là xứng đáng chiếm hữu những ǵ nó không có khả năng chiếm hữu; họ có thể hiểu, bởi Lời và nhờ Lời, những ǵ không thể giải thích bằng lời nói. Tại sao lại như vậy? Không phải v́ vấn đề tự nó là khó khăn, mà bởi v́ nó làm hài ḷng Cha của Lời, Vị Hôn Phu của linh hồn, Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Đấng là Thiên Chúa trên hết mọi sự, đáng chúc tụng muôn đời. Amen” (SC 85:14).

 

Khiêm nhượng là nhân đức chính cho con đường dẫn đến chiêm niệm. Không có nó th́ các mầu nhiệm cao sang nhất và sâu xa nhất về Thiên Chúa, những niềm vui thân t́nh của việc hiệp nhất, đều bị hư phế bởi cái huyênh hoang (egotism) và tự đại (self-importance). Thánh Truyền nhấn mạnh đến điều ấy và đó cũng là lư do tại sao Thánh Truyền cũng nhấn rất mạnh là nhân đức quan trọng nhất của Mẹ Maria là nhân đức khiêm nhượng. Mẹ làm nên khuôn mẫu chúng ta phải theo, nếu chúng ta muốn có cảm nghiệm chiêm niệm về mối hiệp nhất thân t́nh với Thiên Chúa.

 

Khi chúng ta tiến bước theo hành tŕnh chiêm niệm của ḿnh, chúng ta phải tiến bước với ḷng khiêm nhượng, không bao giờ quá kiêu căng đến không cần kêu xin Mẹ Maria giúp đỡ. Trong bài giảng Missus Est, Thánh Bơ-Na đă khéo léo nói về quyền phép của danh Thánh Maria, khi sử dụng h́nh ảnh được ưa chuộng về Mẹ Maria là “Sao Biển”:

 

“Mẹ là Ngôi Sao chiếu tỏa trên trái đất để sưởi ấm cơi ḷng của chúng ta, bồi dưỡng nhân đức và phá hủy tính mê nết xấu. Ngôi sao sáng lạn lạ lùng lơ lửng trên biển cả bao la. Ôi các bạn ơi! Bị xô lấn vùi dập, các bạn đừng ngoảnh mặt đi khỏi tia sáng của Ngôi Sao này. Khi cơn gió cám dỗ thổi lên trong ḷng, các bạn hăy nh́n lên Ngôi Sao này! Các bạn hăy gọi tên Maria! Khi ước muốn xác thịt nổi lên làm sóng sánh chiếc thuyền con, chiếc thuyền nhỏ của hồn các bạn, các bạn hăy kêu tên Maria. Khi tội lỗi các bạn gh́ các bạn xuống, và các bạn bị bối rối v́ lương tâm ḿnh cắn rứt. Khi tư tưởng về việc phán xét kinh hoàng làm các bạn hoảng sợ và các bạn bắt đầu buông xuôi theo cơn phiền muộn lẫn thất vọng. Các bạn hăy nh́n lên Sao. Hăy gọi tên Maria. Trong hiểm nguy, trong khốn khó, trong mọi day dứt, các bạn hăy nghĩ đến tên Maria. Hăy kêu lên Mẹ! Hăy giữ lấy Mẹ nơi miệng lưỡi các bạn, hăy giữ lấy Mẹ trong tâm hồn các bạn. Hăy theo gương đời sống Mẹ, các bạn sẽ được ơn Mẹ cầu cho. Hăy theo Mẹ các bạn không bao giờ bị lạc bước. Kêu cầu Người giúp đỡ các bạn sẽ không bao giờ thất vọng… Ḷng từ ái của Mẹ sẽ theo các bạn tới cùng. Tới bấy giờ, theo kinh nghiệm của ḿnh, các bạn mới biết thật sự Tên Trinh Nữ là Maria, là Sao Biển!”

(Advent 3, Seasons & Festivals of the Year, Vol. 1; transl. Mount Melleray Abbey; Westminster, Md: The Carroll Press, 1950, p. 91) 

 

Maria Bông Hoa Chiêm Niệm

 

 

Theo truyền thống Đông Phương, hoa thường được dùng để diễn tả các lănh vực tư tưởng thâm sâu, các lănh vực thường có một ư nghĩa sâu xa hay có một ư vị hay ho không nên để bị g̣ bó trong khuôn khổ ngôn ngữ và suy luận. Thay v́ cắt nghĩa tư tưởng thâm sâu, Sư Phụ thường ngồi trước môn sinh nâng một đóa hoa lên. Sau đây là câu truyện vui hay hay được kể lại trong các viện tu Á Đông, nhan đề là “Đức Phật nâng đóa hoa lên”. Truyện kể thế này:

 

“Ngày xưa, khi Đức Phật thuyết pháp ở Núi Gradhraket, ngài giơ đóa hoa trước cộng đồâng. Thấy thế, tất cả đều im lặng. Một ḿnh Đức Kasho mỉm cười. Đấng Phật liền nói: ‘Ta có Chân Lư Tối Thượng. Giờ đây ta trao cho Maha Kasho’”.

 

Sau đó một bài thơ nổi tiếng được sáng tác để dẫn giải câu truyện này:

 

            “Cầm một Bông Hoa 

            Bí mật lộ ra.

            Kasho cười mỉm;

            Cả cộng đồng ngơ ngác sững sờ”

(Zenkei, Zen Comments on the Mumonkan;

New York: A Mentor Boas, 1975, p. 57, 66-67)

 

Bây giờ tôi xin hỏi qúi độc giả: “Theo qúi bạn nghĩ th́ ‘bí mật’ của việc Đức Phật giơ bông hoa lên đây là ǵ, và tại sao lại chỉ có một người trong tất cả bao ngàn người tham dự có thể hiểu được bí mật ấy? C̣n qúi bạn th́ sao? Qúi bạn có hiểu ‘bí mật’ này không? Qúi bạn sẽ thực sự hiểu được và không thuộc về thành phần ngơ ngác, nếu qúi bạn biết lư do tại sao chính Mẹ Maria, “Hoa Hường Mầu Nhiệm”, là người t́nh trong Diễm T́nh Ca, và tại sao chính Người gọi ḿnh là “Bông Huệ Thung Lũng”. Mầu nhiệm Mẹ Maria phản ảnh trong thẳm cung linh hồn qúi bạn sẽ là mầu nhiệm dẫn qúi bạn đến cảm nghiệm chiêm niệm riêng của qúi bạn. Ví qúi bạn nên biết rằng, qúi bạn và tôi, tất cả chúng ta, đều cầm một cành hoa vĩnh cửu trong tay của ḿnh; đúng hơn, chúng ta là chính bông hoa ấy. Khi cắt nghĩa “bí mật” việc Đức Phật cầm bông hoa, vị thiền sư tuổi tác viết:

 

“Mưa rơi đêm qua

tan nát bông hoa

Lâu đài hương sắc

Nước mắc chung quanh”.

 

Suy niệm về mầu nhiệm Maria, và cẩn thận chú ư đến Mẹ như một nhà chiêm niệm, và như một người nữ được Thiên Chúa chọn, có thể là một phương tiện tuyệt vời dẫn chúng ta đến cảm nghiệm chiêm niệm của riêng chúng ta trong thẳm cung con người ḿnh. Đây không phải chỉ là thái độ của thời nguyên khác, hay là việc tôn sùng một vị thánh đặc biệt. Trái lại, nó là một lời kêu gọi phổ quát. Nó áp dụng cho cả nam nhân lẫn nữ giới như nhau, cho tất cả những ai muốn biết cảm nghiệm chiêm niệm của ḿnh. Ở đây, chúng ta có một mô phạm tác hành diễn tiến trong mỗi một linh hồn. Theo tác hành này, là âm cực, mỗi một linh hồn sẽ tăng thêm nhận thức về ḿnh tới mức độ nhận thức của Trinh Nữ Maria. Ḷng dạ Mẹ Maria là một biểu hiệu hùng hồn cho “cơi ḷng của con người chúng ta”, nhờ đó, tỏ cho chúng ta thấy được cái đói khát tiên nguyên của chúng ta trong việc ôm lấy Thiên Chúa. Thế nên, khi chúng ta sống theo nữ tính của Mẹ Maria trong chúng ta là chúng ta có được một cảm nghiệm chiêm niệm trong ḿnh.